Luật Lưu trữ năm 2011 sau khi có hiệu lực đã tạo cơ sở
pháp lý cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về lưu trữ của
Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, các tài liệu lưu trữ bảo quản tại các
Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Trung tâm Lưu trữ lịch sử ở địa phương và Lưu trữ
cơ quan cơ bản được chỉnh lý, xác định giá trị, bảo vệ, bảo quản an toàn, sử dụng
có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt
được, Luật Lưu trữ năm 2011 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, một số quy định
không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là với các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (trong đó có
lĩnh vực lưu trữ) để tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước. Trên cơ sở
kế thừa quy định của Luật Lưu trữ năm 2011, Luật Lưu trữ năm 2024 được xây dựng
tập trung làm rõ một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi thành phần của Phông
lưu trữ quốc gia Việt Nam. Theo quy định tại Luật Lưu trữ năm 2011, Phông lưu
trữ Quốc gia Việt Nam bao gồm Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và Phông lưu
trữ Nhà nước Việt Nam. Luật Lưu trữ năm 2024 đã bổ sung tài liệu lưu trữ tư vào
thành phần Phông lưu trữ Việt Nam. Quy định mới này vừa nhằm bảo đảm Phông lưu
trữ quốc gia Việt Nam bao gồm toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước Việt Nam vừa
cho thấy giá trị và tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ tư.
Thứ hai, Luật Lưu trữ năm 2024 đã bổ sung
và phân định rõ hơn về thẩm quyền quản lý tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt
Nam, giúp phân chia rõ ràng và minh bạch thẩm quyền quản lý, đồng thời tăng cường
khả năng bảo quản và tiếp cận tài liệu lưu trữ theo từng ngành, cấp độ. Cụ thể
Điều 10 Luật Lưu trữ năm 2024 quy định về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ
như sau:
- Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý và lưu trữ tài liệu
lưu trữ thuộc phạm vi quản lý, bao gồm toàn bộ tài liệu lưu trữ hình thành
trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ
chức tiền thân của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội,
nhân vật lịch sử, tiêu biểu của Đảng Cộng sản Việt Nam và cơ sở dữ liệu tài liệu
lưu trữ Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Bộ Nội vụ quản lý tài liệu lưu trữ và cơ sở dữ liệu tài
liệu lưu trữ, bao gồm: Tài liệu lưu trữ tại lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở
trung ương; cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam,
không bao gồm cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ của ngành quốc phòng, công an, ngoại
giao; tài liệu lưu trữ dự phòng Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam, không bao gồm
tài liệu lưu trữ dự phòng của các ngành quốc phòng, công an, ngoại giao.
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao quản lý và
lưu trữ tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động, tài liệu lưu trữ dự
phòng, tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt và cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ của
các ngành quốc phòng, công an, ngoại giao.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý tài liệu lưu trữ tại
lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở cấp tỉnh; cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ hình
thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện và
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, doanh nghiệp nhà nước do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định thành lập, tài liệu lưu trữ hình thành trong quá trình hoạt động của
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã và tài liệu lưu trữ của hội quần
chúng ở địa phương do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ.
- Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, hội quần
chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý và lưu trữ tài liệu lưu trữ, cơ sở
dữ liệu tài liệu lưu trữ tại lưu trữ hiện hành và tài liệu lưu trữ khác theo
quy định của luật có liên quan.
- Tổ chức, cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng quản
lý và lưu trữ tài liệu lưu trữ tư, cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ tư (nếu có).
Thứ ba, Luật Lưu trữ năm 2024 đã bổ sung
quy định mới về nghiệp vụ lưu trữ tài liệu điện tử nhằm thể chế hoá nội dung của
Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động
tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cụ thể:
- Luật Lưu trữ năm 2024 đã khẳng định giá trị pháp lý của
tài liệu lưu trữ số, khẳng định tài liệu lưu trữ số có đầy đủ giá trị pháp lý
như thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử (khoản
3 Điều 7).
- Luật Lưu trữ năm 2024 đã quy định rõ thành phần của tài liệu lưu trữ điện tử
bao gồm tài liệu lưu trữ số và các tài liệu lưu trữ điện tử khác. Trong
đó, tài liệu lưu trữ số là tài liệu được tạo lập bằng phương pháp dùng tín hiệu
số bao gồm: Tài liệu lưu trữ tạo lập dạng số và bản số hóa tài liệu lưu trữ.
- Luật Lưu trữ năm 2024 cũng quy định về hoạt động thu
nộp, bảo quản, sử dụng tài liệu lưu trữ số và hủy tài liệu lưu trữ số hết giá
trị và lưu trữ tài liệu lưu trữ điện tử khác.
Thứ tư, Luật Lưu trữ năm 2024 quy định về tài liệu
lưu trữ có giá trị đặc biệt trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Lưu trữ năm
2011 về tài liệu lưu trữ quý, hiếm. Cụ thể:
- Luật Lưu trữ năm 2024 đã thay đổi tên gọi “tài liệu
lưu trữ quý, hiếm” thành “tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt”. Theo đó, một
tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt phải đáp ứng được một trong các điều kiện
về nội dung bao gồm: (a) Phản ánh lịch sử hình thành và phát triển của quốc
gia, dân tộc, của ngành, lĩnh vực; (b) Quá trình hình thành, xác lập và thực
thi chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, biên giới quốc gia; (c) Công trình khoa học,
sản phẩm tiêu biểu của ngành, lĩnh vực; (d) Thân thế, sự nghiệp và đóng
góp của cá nhân, gia đình, dòng họ tiêu biểu; (đ) Tài liệu lưu trữ khác có tầm
quan trọng đặc biệt đối với quốc gia, dân tộc hoặc thế giới và một trong số các
điều kiện về hình thức xuất xứ sau đây: (a) Phương pháp, kỹ thuật trình bày đặc
sắc, có tính thẩm mỹ và nghệ thuật; (b) Đặc trưng, điển hình của thời kỳ lịch
sử; (c) Hình thành trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt về thời gian, địa điểm hoặc
tác giả.
- Luật Lưu trữ năm 2024 cũng quy định trình tự, thủ tục
công nhận tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt và giao Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy
định chi tiết trình tự, thủ tục công nhận, hủy bỏ việc công nhận tài liệu lưu
trữ có giá trị đặc biệt nhằm khẳng định giá trị của tài liệu lưu trữ và bảo đảm
việc phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ.
Thứ năm, Luật Lưu trữ năm 2024 xác định rõ phạm vi
của lưu trữ tư, là lưu trữ của cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng, tổ chức
không phải là hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ (khoản 14 Điều 2).
Đồng thời, Luật cũng quy định về trách nhiệm quản lý lưu trữ tư; chính sách của
Nhà nước để phát triển lưu trữ tư; quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài liệu
lưu trữ tư; ký gửi tài liệu lưu trữ tư vào lưu trữ lịch sử; tặng cho Nhà nước
tài liệu lưu trữ tư; tài liệu lưu trữ tư có giá trị đặc biệt.
Thứ sáu, Luật Lưu trữ năm 2024 đã chính thức công
nhận ngày 03/01 hằng năm là “Ngày Lưu trữ Việt Nam” nhằm khẳng định vai
trò, tầm quan trọng của công tác lưu trữ và ghi nhận công lao, đóng góp của người
làm lưu trữ.
Có thể thấy, Luật Lưu trữ năm 2024 đã có những thay đổi phù hợp với nhu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển của Chính phủ điện tử.
Luật Lưu trữ năm 2024 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025./.
(Nguồn: Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật).